Quân sự Trung_Hoa_Dân_Quốc_(1912–1949)

Lực lượng vũ trang

Quốc dân Cách mạng quân với trang bị kiểu Đức.

Thời kỳ đầu Dân quốc (1913-1927), Bắc Dương tân quân do Viên Thế Khải sáng lập là lực lượng chủ yếu của Lục quân Trung Hoa Dân Quốc, tướng lĩnh chủ yếu của lực lượng này hùng bá một phương, tại các địa phương tiến hành cát cứ quân phiệt, phân chia phạm vi thế lực.[177] Đến năm 1924, Trung Quốc Quốc dân Đảng học tập mô hình chế độ quân sự của Đảng Cộng sản Liên Xô để lập ra Quốc dân Cách mạng quân, là lực lượng vũ trang quốc gia từ sau Bắc phạt đến khi thi hành hiến pháp, cũng là tiền thân của Quốc quân Trung Hoa Dân Quốc.[104] Đồng thời, Đảng Cộng sản Trung Quốc cũng phát triển thế lực vũ trang lãnh đạo thời kỳ đầu của họ trong Quốc dân Cách mạng quân. Tháng 4 năm 1928, lực lượng tiến hành Khởi nghĩa Nam Xương do Chu Đức lãnh đạo và lực lượng tiến hành Khởi nghĩa Thu Thu do Mao Trạch Đông lãnh đạo hội quân tại tỉnh Cương Sơn, hình thành Quân đoàn số 4 Quân Cách mạng Công nông Trung Quốc. Quân Cách mạng Công nông Trung Quốc sau đổi sang gọi là Hồng quân, Hồng quân Công nông Trung Quốc. Sau khi Chiến tranh kháng Nhật bùng phát, Hồng quân công nông Trung Quốc được cải biên thành Bát lộ quânTân tứ quân, trên danh nghĩa là lực lượng thuộc Quốc dân Cách mạng quân. Sau khi đại chién kết thúc, do Quốc-Cộng hợp tác tan vỡ nên đổi sang gọi là Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc.[178]

Trước Chiến tranh kháng Nhật, Sư đoàn Đức giới là lực lượng được trang bị vũ khí ở mức độ cao nhất trong quân đội Trung Quốc, các binh sĩ được trang bị mũ tiêu chuẩn, có súng trường Tưởng Giới Thạch sản xuất trong nước hoặc súng trường Mauser do Đức chế tạo, súng máy nhẹ sản xuất trong nước phỏng theo ZB vz. 26 của Tiệp Khắc, súng liên thanh macxim 24...Sư đoàn Đức giới khi bắt đầu tác chiến với Nhật trong trận Thượng Hải còn có pháo hạng nặng sFH 18, xe tăng, xe bọc thép do Đức chế tạo, song về cơ bản bị xóa xổ sau giao tranh tại Thượng Hải và Nam Kinh.[179]

Hải quân Trung Hoa Dân Quốc thừa kế từ triều đại Thanh, giao lưu khá nhiều với Anh Quốc, tiếp đến là Nhật Bản. Năm 1928, khi thành lập Chính phủ Nam Kinh, Ủy viên trưởng Tưởng Giới Thạch bổ nhiệm Trần Thiệu Khoan là Bộ trưởng Bộ Hải quân kiêm tổng tư lệnh. Thời kỳ đầu, hạm đội ước tính có 44 tàu, trọng lượng rẽ nước hơn 30.000 tấn; tới trước khi kháng chiến bùng phát, hạm đội tăng lên đến 58 tàu, trên 58.000 tấn. Trước khi chiến tranh bùng phát vào năm 1937, hải quân biên thành bốn hạm đội, nhiệm vụ chủ yếu là yểm hộ lục quân tác chiến phòng thủ. Đến thời kỳ kháng Nhật, hải quân bị phá hủy hầu như hoàn toàn, phải đến khi tiếp nhận tàu từ Nhật Bản, Hoa Kỳ và Anh Quốc sau chiến tranh mới dần mở rộng biên chế, từ đó trở đi đối tượng giao lưu chủ yếu là Hoa Kỳ.[180]

Không quân Trung Hoa Dân Quốc ban đầu là Cục Hàng không thành lập tại Đại Sa Đầu của Quảng Châu, đương thời chỉ có ba chiếc máy bay và hai chiếc máy bay huấn luyện JN-4 "Jenny". Năm 1927, Chính phủ Quốc dân thành lập Hàng không xứ, đến năm 1928 thì đổi thành Hàng không sảnh, chia thành 4 đội, tổng cộng có 24 chiếc máy bay.[181] Sau Bắc phạt, quốc tế bãi bỏ cấm vận vũ khí áp đặt liên tục trong 10 năm với Trung Quốc. Từ năm 1934 trở đi, Chính phủ Nam Kinh hợp tác cùng Công ty Curtiss Wright của Hoa Kỳ lập xưởng chế tạo máy bay trung ương[182], và bắt đầu nhập khẩu linh kiện lắp ráp máy bay. Thời kỳ đầu, Không quân Trung Hoa Dân Quốc sử dụng Hawk-IIHawk III đều do Hoa Kỳ sản xuất[183] Từ năm 1937 đến năm 1941, Không quân Liên Xô cung cấp cho Chính phủ Quốc dân một lượng lớn I-15, I-16, SB-3, đồng thời Đội tình nguyện hàng không Liên Xô tham gia tác chiến kháng Nhật. Tỷ lệ chiến đấu cơ Hoa Kỳ trong không quân từng suy giảm, song sau khi Liên Xô rút viện trợ vào năm 1941, chính phủ lại bắt đầu sử dụng nhiều các loại máy bay của Hoa Kỳ. Ngoài ra, sau khi kháng chiến kết thúc, Chính phủ Quốc dân từng tiếp nhận một tốp Mosquito do Anh thiết kế, Canada sản xuất.[183]

Trường quân sự

Trường sĩ quan lục quân Bảo Định là học viện quân sự được thành lập sớm nhất, quy mô lớn nhất, chương trình chính quy nhất trong lịch sử giáo dục quân sự cận đại Trung Quốc. Từ năm 1912 đến năm 1923, tổng cộng đào tạo 9 khóa, với hơn 6300 người tốt nghiệp, trong đó không ít người về sau trở thành giảng viên Trường quân sự Hoàng Phố, đồng thời có hơn 1700 người tốt nghiệp từ đây trở thành tướng quân. Trường sĩ quan lục quân Trung Hoa Dân Quốc được thành lập vào năm 1924, là kết quả của Quốc-Cộng hợp tác lần thứ nhất, được dời đến Nam Kinh sau Bắc phạt, sau khi chiến tranh kháng Nhật bùng phát lại dời đến Thành Đô, đại bộ phận học viên tốt nghiệp trong thời kỳ từ 1949 về trước đều từng tham gia Bắc phạt, chiến tranh kháng Nhật hay nội chiến với cộng sản[184]. Ngày 17 tháng 10 năm 1933, Đảng Cộng sản Trung Quốc thành lập Đại học Hồng binh Công-Nông Trung Quốc tại Thụy Kim, sau Trường chinh thì hợp nhất cùng Trường Chính trị Quân sự Hồng quân Thiểm Bắc thành Trường Hồng quân Công-Nông Tây Bắc, về sau phát triển thành Đại học Hồng quân kháng Nhật Tây Bắc của nước Cộng hòa Nhân dân Xô viết Trung Hoa[185]. Tháng 4 năm 1937, trường này đổi tên thành Đại học Quân-Chính kháng Nhật Nhân dân Trung Quốc.[186]

Thời kỳ đầu lập quốc, Trung Hoa Dân Quốc kế thừa một số trường huấn luyện hải quân của triều đình Thanh, tuy nhiên do nhân tố quân phiệt cát cứ nên năng lực chiến hạm bị phân tán, đến thời kỳ Chính phủ Nam Kinh thống nhất thì hiện tượng đấu tranh nội bộ giữa các phe phái và tỉnh cực kỳ nghiêm trọng. Việc chiến tranh bùng phát ở mức độ nhất định cũng là cơ hội để Chính phủ Quốc dân chỉnh đốn, do chiến hạm bị quân Nhật tiêu diệt, để mất khu vực duyên hải nên toàn bộ lực lượng hải quân chuyển đến Tứ Xuyên, đơn vị huấn luyện hải quân chỉ còn lại Trường Hải quân Mã Vĩ Phúc Châu do Mân hệ nắm giữ.[187]

Cơ cấu đào tạo không quân của Trung Hoa Dân Quốc bắt đầu sớm nhất vào năm 1913 khi Chính phủ Bắc Dương cho lập Trường Hàng không Nam Uyển, hoạt động tổng cộng được 15 năm, đào tạo được 4 khóa với tổng cộng 158 học viên phi hành.[188] Năm 1924, Tôn Trung Sơn sáng lập Trường Phi cơ Quân sự tại Quảng Châu, lựa chọn 8 người tốt nghiệp Trường quân sự Hoàng Phố đi học tập phi hành. Năm 1929, Chính phủ Quốc dân lập ban hàng không thuộc Trường sĩ quan lục quân Trung ương tại Nam Kinh. Năm 1932, ban này đổi tên thành "Trường Hàng không Chính phủ Quốc dân", địa điểm tại Hàng Châu. Sau khi hành chiến bùng phát, trường chuyển đến Côn Minh, đến năm 1938 thì chính thức được đặt tên là "Trường Sĩ quan Không quân", sau kháng chiến trường trở về Hàng Châu.[189]

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Trung_Hoa_Dân_Quốc_(1912–1949) http://202.55.1.83/history/history_news_year.asp?d... http://221.195.59.51:8005/reslib/400/110/030/L0000... http://60.250.180.26/acadmy/na001.html http://www.btzx.cn/Article/zjss/lszg/201012/25454.... http://myy.cass.cn/news/379429.htm http://kejiao.cntv.cn/bjjt/classpage/video/2010113... http://news.china.com.cn/rollnews/2011-06/13/conte... http://www.chinamil.com.cn/big5/wy/2011-12/21/cont... http://cpc.people.com.cn/GB/64162/64172/85037/8503... http://cpc.people.com.cn/GB/69112/75843/75874/7599...